Cà phê có lẽ là thứ duy nhất đủ để giữ người ta lại, để mà chờ đợi, để mà suy tư.
MAD
Cà phê có nguồn gốc từ Ethiopia từ thế kỷ thứ 9 tuy nhiên phải đến thế kỷ 15 cà phê mới trở thành một loại đồ uống bắt đầu từ vùng Ả Rập, trung tâm giao dịch cà phê đầu tiên trên thế giới là Mocha (hay Mokka) - thành phố cảng Mocha, hay còn được gọi là Mokka, tức là thành phố Al Mukha thuộc Yemen ngày nay.
Trải qua một thời gian dài cây cà phê được phân bổ nhiều vùng lãnh thổ và cà phê trở thành thứ đồ uống phổ biến nhất trên thế giới.
Hiện này trên thế giới phổ biến nhất là 2 loại hạt cà phê là Arabica và Robusta
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 trên thế giới sau Brazil, loại hạt cà phê phổ biến nhất ở Việt Nam đó là Robusta. Vậy trên thế giới có những loại hạt cà phê nào?
1. CÀ PHÊ ARABICA
Bạn có khi nào thấy một túi cà phê được dán nhãn 100% Arabica, thực chất Arabica là loại hạt phổ biến nhất trên thế giới để sử dụng làm cà phê. Arabica có chất lượng cao hơn Robusta và giá của chúng cũng đắt hơn. Chúng tạo ra cà phê có vị ngọn dịu và đỡ gắt hơn.
Arabica là loại cà phê phổ biến nhất (và chắc chắn được tiếp thị nhiều nhất) ở Bắc Mỹ. Đó là bởi vì nó thực sự có hương vị ngọt ngào hơn, tinh tế hơn và bản thân cà phê có xu hướng ít chua hơn. Hạt cà phêArabica được trồng ở những vùng có độ cao trên mực nước biển, đặc biệt là những nơi có nhiều mưa. Trên thực tế, Brazil, được biết đến với khu rừng nhiệt đới tươi tốt, là nước xuất khẩu đậu Arabica hàng đầu thế giới. Bản thân các loại cây này khá mỏng manh, đòi hỏi sự cắt tỉa hợp lý và sự chú ý liên tục đến các yếu tố môi trường. Các loài cà phê arabica đặc biệt dễ bị bệnh nên việc nuôi trồng với số lượng lớn là một thách thức. Điều này làm tăng giá thành của hạt cà phê trên thị trường toàn cầu một cách đáng kể, nhưng nhiều người uống cà phê trên khắp thế giới rất vui khi trả khoản chênh lệch vì vị mềm hơn, ngọt hơn.
Arabica xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ trước. Với độ cao 1500 m, khí hậu ôn đới mát quanh năm, nhiệt độ cực đại trong năm không vượt quá 33 độ C, nhiệt độ cực tiểu 5 độ C. Cầu Đất - Đà Lạt là vùng sản xuất cà phê Arabica chất lượng cao nhất cả nước. Địa hình càng cao, khí hậu càng lạnh hơn, càng cho ra những hạt cà phê Arabica chất lượng tuyệt hảo.
Arabica gồm có các loại hạt cà phê Bourbon, Typica, Mocha và Catimor. Trong đó Bourbon, Typica, Mocha là các loại hạt cà phê lâu đời nhất trên thế giới, nhưng ba loại cà phê này rất khó trồng và dễ bị sâu bệnh. Ngược lại giống cà phê Catimor được lai tạo từ hai giống cà phê Caturra và Timor (Timor lại là sự lai tạo của coffea canephora dòng robusta với arabica) lại dễ trồng hơn, cho năng suất cao hơn và có thể kháng được sâu bệnh hại. Trong các loại hạt cà phê trên thì có hai loại đang trồng tại Việt Nam, đó là Moka và Catimor.
2. CÀ PHÊ ROBUSTA
Robusta có hàm lượng Cafeine cao hơn Arabica, có vị đắng gắt hơn. Loại hạt này thường dùng để sản xuất cà phê hòa tan và cà phê Espresso.
Khi nói đến sản lượng toàn cầu, hạt cà phê Robusta đứng thứ hai trong danh sách và phổ biến nhất ở Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi. Tên của nó thể hiện điều này, vì nó được biết đến với hương vị mạnh mẽ và thường khắc nghiệt. Cà phê Robusta có hàm lượng caffein cực cao, giúp cây có khả năng phục hồi tốt hơn nhiều so với cà phê Arabica. Đó là bởi vì caffeine hoạt động như thuốc chống côn trùng tự nhiên, loại bỏ mối đe dọa lớn đối với cây.
Các loài cà phê caniphora (tên khác của Robusta) cũng đặc biệt chịu được môi trường của nó, vì vậy nó có thể được trồng ở bất kỳ độ cao và khí hậu nào. Robusta có thể được sử dụng cho cà phê hòa tan và.
Những hạt cà phê Robusta ngon nhất sẽ có chút sô cô la và rượu rum trong hương vị của chúng, nhưng trên thực tế, không phải lúc nào cũng có sẵn loại này. Vào cuối ngày, nếu sở thích chính của bạn đối với một tách cà phê là uống một lượng caffein hàng ngày, bạn có thể cũng sẽ làm với một tách Robusta tiêu chuẩn và chế biến tốt để giảm vị găt hương vị bằng kem và đường thì thật tuyệt vời.
Ở Việt Nam, Cà phê Robusta là giống cà phê thích nghi tốt với khí hậu và thổ nhưỡng trên vùng đất đỏ bazan – Tây Nguyên trù phú với độ cao từ 800 - 1000m so với mặt nước biển. Trong các loại hạt cà phê thì Robusta là loại cà phê được trồng nhiều nhất ở Việt Nam, chiếm hơn 90% sản lượng hằng năm.
3. CÀ PHÊ LIBERICA
Coffea Liberica có nguồn gốc ở Liberia, Tây Phi. Tuy nhiên, ngày nay, nó chủ yếu được trồng và tiêu thụ ở Đông Nam Á – cụ thể là Philippines, Indonesia và Malaysia. Chỉ riêng ở Philippines, Liberica chiếm hơn 70% tổng số cà phê được trồng. “Nó có thể bắt đầu từ Liberia, cây cà phê Liberica đã đến Ethiopia, và từ đó nó có thể đã đến Trung Đông và do đó lan sang Đông Nam Á.
Cây Liberica bắt đầu cho quả sau 5 năm kể từ khi được trồng. Chúng phát triển rất cao, với một số cây có chiều cao lên đến 17 mét – điều này có thể khiến việc hái quả trở nên khó khăn. Lá và quả của cây cà phê Liberica cũng lớn hơn đáng kể so với lá của cây Arabica và cây Robusta. Lá Liberica có thể phát triển rộng tới 30 cm và những quả cà phê khi chín của loài này có thể to gần như gấp đôi kích thước của hai loại còn lại. Không chỉ có lá to như lá mít, cây cà phê Liberica còn thực sự có mùi như quả mít!
4. CÀ PHÊ EXCELSA
Excelsa là một thành viên của họ Liberica, nhưng loài của nó thực sự rất khác biệt. Giống như cà phê Liberica được mô tả ở trên, Excelsa được trồng chủ yếu ở Đông Nam Á và chỉ chiếm một phần nhỏ sản lượng cà phê của thế giới. Excelsa tự hào với hương vị chua cay, trái cây và được biết đến với việc thể hiện các thuộc tính của cả cà phê rang nhạt và cà phê rang đậm để tạo ra một hồ sơ độc đáo thường được những người đam mê cà phê tìm kiếm. Cà phê Mít hay Excelsa đều là tên gọi dành cho cà phê Excelsa. Loại cà phê này được trồng nhiều ở những vùng đất khô đầy gió và nắng của vùng cao nguyên, đôi khi cũng chẳng cần tưới nhiều nước, chúng có khả năng chống chịu sâu bệnh rất tốt và cho năng suất rất cao, mang lại lợi nhuận kinh tế.
Cà phê Excelsa mang một đặc điểm và hương vị rất khác lạ, khi pha tạo ra mùi thơm thoang thoảng, đặc biệt là vị chua của Excelsa tạo ra một cảm giác thật sảng khoái.
HAI LOẠI EXCELSA VÀ LIBERICA ĐƯỢC GỌI LÀ CÀ PHÊ CHERRY (CÀ PHÊ MÍT).
5. CÀ PHÊ MOKA (MOCHA)
Cafe Moka được xem là Hoàng Hậu trong vương quốc cà phê.Cà phê Moka là một chủng loại thuộc giống Arabica. Moka cùng họ với những loại cà phê nổi tiếng như: Typica, Bourbon, Icatu hay Mundo Novo.
Moka được tìm thấy lần đầu tiên tại một thành phố cảng có tên Mocha thuộc Yemen. Vì vậy, giống cafe này còn có tên gọi Mocha Coffee. Loại cà phê này lần đầu được đưa ra ngoài lãnh thổ Yemen là vào những năm cuối của thế kỷ 13. Khi nhà truyền giáo Marco Polo đến đây và mang hạt Moka đi bán ở châu Âu.
Tuy nhiên đến mãi thế kỷ thứ 17, hạt cà phê Moka mới thực sự trở thành một làn sóng và nổi tiếng khắp châu Âu. Khi người ta phối trộn nó với Chocolate tạo thành hương vị Coffee – Chocolate.
Đến những năm cuối của thế kỷ 19, đâu đó khoảng năm 1875, người Pháp đã đem hạt giống Moka đi trồng nhiều ở các tỉnh phía Bắc, Việt Nam. Sau này khi nhận thấy điều kiện khí hậu thuận lợi, họ mới mở các đồn điền cà phê lớn ở Tây Nguyên và đặc biệt là ở Cầu Đất, Đà Lạt.
Những ly cafe Moka nguyên nhất 100% sẽ mang theo mình vị đắng nhẹ, xem lẫn trong đó là một chút chua thanh và vị béo của phần dầu bên trong hạt. Khi uống, cái đắng lan tỏa trong miệng rồi xuống cuống họng, nhưng chỉ vài giây sau mùi hương nồng nàn và vị ngọt mới xuất hiện.
Có lẽ cây cafe Moka khó trồng, đòi hỏi người ta mất nhiều công chăm sóc. Ấy vậy, hương thơm và vị ngọt lúc sau là thành quả của sự kiên trì và tỉ mỉ chế biến. Đó là điều khiến mùi vị của cafe Moka là có một không hai trên thế giới.
6. CÀ PHÊ CATIMOR
Catimor là sự lai tạo giữa cafe Timor (cà phê Timor được lai tạo từ cà phê Arabica và Robusta) và Caturra.
Vào khoảng thế kỷ 19, tại Trung Nam Mỹ thường xuyên xảy ra các dịch bệnh trên cây cà phê. Đặc biệt là đối với giống cây Bourbon, Typica và Moka. Lúc này, các nhà khoa học cố gắng nghiên cứu tạo ra giống cafe có khả năng kháng bệnh, thân nhỏ và cho năng xuất cao. Đến năm 1959, các nhà khoa học Bồ Đào Nha đã thành công khi cho ra đời giống cafe Catimor, dòng cà phê đáp ứng các tiêu chí trên. Giống cây cà phê chè này được đánh giá có năng suất cao, khả năng kháng bệnh tốt và kích thước nhỏ, phù hợp cho việc trồng được nhiều cây trên cùng diện tích. Hạt Catimor được giới thiệu đầu tiên tại Brazil vào năm 1970. Ngay sau đó, Catimor đã tạo nên một hiệu ứng khi các nhà máy sản xuất thay nhau truy tìm giống cafe có năng suất cao này.